TRANG CHỦĐỀ ÁNTác động đến kinh tế và hội nhập
12/12/2024

Tác động của việc thực thi các cam kết trong CPTPP đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Tưởng Thị Thanh Vinh

Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương

Tóm tắt      

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một trong những hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, bao gồm 12 quốc gia thành viên Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia, Việt Nam và Vương quốc Anh với nền kinh tế chiếm khoảng 15% GDP toàn cầu. Việc Việt Nam gia nhập CPTPP không chỉ là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà còn mang lại những cơ hội và thách thức đáng kể đối với tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế của quốc gia. Bài viết này sẽ phân tích tác động của CPTPP lên nền kinh tế Việt Nam, với trọng tâm là tăng trưởng GDP và sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu và cơ quan quản lý nhà nước.

Từ khóa: CPTPP, cơ cấu kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng trưởng gdp, xuất khẩu.

I. Tổng quan về CPTPP và kinh tế Việt Nam

1.1. Tổng quan về Hiệp định CPTPP

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia, Việt Nam. CPTPP có hiệu lực tại Australia, Canada, Nhật Bản, Mexico, Singapore và New Zealand vào ngày 30/12/2018, có hiệu lực tại Việt Nam từ 14/1/2019, và có hiệu lực tại Peru từ ngày 19/9/2021. Ngày 05/10/2022, Malaysia chính thức phê chuẩn CPTPP và Hiệp định có hiệu lực tại Malaysia từ ngày 29/11/2022. Ngày 22/12/2022, Chile chính thức phê chuẩn CPTPP và Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 21/02/2023. Brunei cũng đã chính thức phê chuẩn CPTPP ngày 13/05/2023, Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 12/07/2023. Vương quốc Anh là quốc gia đầu tiên ngoài nhóm quốc gia sáng lập tham gia vào Hiệp định. Sau khi nộp đơn xin gia nhập vào tháng 2/2021, Vương quốc Anh chính thức ký thỏa thuận gia nhập CPTPP vào ngày 16/07/2023, nâng tổng số thành viên của Hiệp định lên 12 thành viên. Ngoài các nước thành viên, hiện có 05 quốc gia/nền kinh tế khác đã chính thức nộp đơn xin gia nhập CPTPP, bao gồm: Trung Quốc, Đài Bắc Trung Hoa (tháng 9/2021), Ecuador (tháng 1/2022), Costa Rica (tháng 8/2022) và Uruguay (tháng 12/2022).

1.2. Kinh tế Việt Nam trước khi tham gia CPTPP

Trước khi tham gia Hiệp định CPTPP, Việt Nam đã có những thành tựu về kinh tế rất ấn tượng. Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2019 đạt từ 6,4 đến 7,4%. Việt Nam được đánh giá là nền kinh tế năng động, tăng trưởng nhanh và nhiều tiềm năng trong khu vực.

* Tăng trưởng kinh tế

Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ấn tượng trong nhiều năm liền trước khi tham gia CPTPP. Cụ thể:

- Tăng trưởng GDP: Trong giai đoạn từ 2011 đến 2019, tăng trưởng GDP của Việt Nam duy trì ổn định ở mức khoảng 6-7% mỗi năm. Đây là mức tăng trưởng được cho là cao nhất khu vực Đông Nam Á. Điều này phần nào phản ánh hiệu quả của các cải cách kinh tế mà Việt Nam đã thực hiện từ những năm 1980, cũng như sự mở cửa hội nhập quốc tế qua các hiệp định thương mại tự do khác.

- Cơ cấu kinh tế: Trong giai đoạn trước khi tham gia CPTPP (2015-2019), về cơ bản cơ, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản và tăng tỷ trọng cho khu vực công nghiệp, khai khoáng và xây dựng và khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại và đảm bảo sự cân đối nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, hiệu quả của việc chuyển dịch cơ cấu còn hạn chế. Nền sản xuất vẫn chủ yếu là gia công, hàng hóa có giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, chưa tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Khu vực công nghiệp, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo, và dịch vụ chưa phát triển đủ lớn mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

* Xuất, nhập khẩu

Theo thống kê của WTO, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2018 xếp vị trí trong số 30 nước có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất. Những kết quả ấn tượng của hoạt động xuất nhập khẩu năm 2018 đóng góp tích cực vào bức tranh tăng trưởng chung của nền kinh tế cả nước, trở thành động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn trước CPTPP:

- Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt trong các lĩnh vực như dệt may, giày dép, điện tử và nông sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 243,48 tỷ USD vào năm 2018, tăng trưởng trung bình khoảng 12-15% mỗi năm trong suốt thập kỷ trước đó. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam bao gồm Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

- Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cũng tăng đáng kể, đạt khoảng 236,69 tỷ USD vào năm 2018. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Việc nhập khẩu mạnh mẽ này cho thấy sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào các nguyên liệu và công nghệ từ nước ngoài, điều này đã tạo ra một thâm hụt thương mại nhỏ nhưng đáng kể trong một số năm.

Cán cân thương mại: Việt Nam đã duy trì cán cân thương mại tương đối ổn định trong đó một số năm đạt thặng dư thương mại. Năm 2018 là năm thứ 3 liên tiếp kể từ năm 2016, Việt Nam có xuất siêu trong hoạt động xuất nhập khẩu và cũng là năm thặng dư cán cân thương mại của nước ta đạt mức cao nhất từ trước tới năm 2018. Điều này phần nào phản ánh khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, mặc dù phần lớn các sản phẩm xuất khẩu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp gia công, chế biến.

II. Đánh giá tác động của thực thi CPTPP đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

2.1. Tác động tích cực

* Tác động đến kinh tế nói chung

Thứ nhất, việc thực thi CPTPP thời gian qua đã giúp nâng thị phần xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các thị trường đối tác, nhất là các thị trường các quốc gia trong CPTPP. Xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu đã giúp cải thiện tốt hơn cán cân thương mại, và duy trì xuất siêu ngày càng tăng,...

Thứ hai, việc thực thi CPTPP cũng giúp Việt Nam đa dạng hóa và phát triển thêm nhiều nguồn cung cấp mới từ các đối tác châu Á Thái Bình Dương.Thị trường nhập khẩu được đa dạng hóa và phát triển mới đã giúp nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhập khẩu phục vụ CNH, HĐH đất nước và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu.

Thứ ba, việc thực thi CPTPP tạo hiệu ứng tích cực đến đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các đối tác. Hầu hết các nhóm mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam đều có khả năng hưởng lợi từ CPTPP. Tạo những điều kiện thương mại thuận lợi từ phía các đối tác để Việt Nam khai thác tốt hơn lợi thế so sánh, góp phần thúc đẩy chuyển dich cơ cấu kinh tế, cơ cấu các ngành sản xuất trong nước theo chiều hướng có hiệu quả hơn.

Thứ tư, việc thực thi CPTPP tác động tích cực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp và của nền kinh tế nhờ vào việc tiếp cận thị trường xuất khẩu có sự ưu đãi về thuế quan, giảm được chi phí các yếu tố đầu vào bởi được chuyển giao công nghệ và nhập khẩu các yếu tố đầu vào với giá rẻ hơn theo các điều kiện ưu đãi trong CPTPP.

Thứ năm, việc thực thi CPTPP tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thông qua thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam. Đồng thời, góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là động lực quan trọng để Việt Nam đạt các kết quả đáng ghi nhận về thương mại và tăng trưởng kinh tế nói chung, góp phần nâng tầm các ngành công nghiệp và tăng trưởng năng suất.

* Tác động đến những lĩnh vực cụ thể

- Gia tăng xuất khẩu và mở rộng thị trường quốc tế: Một trong những lợi ích lớn nhất mà CPTPP mang lại cho Việt Nam là khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế rộng lớn với điều kiện ưu đãi. CPTPP là hiệp định thương mại tự do với quy mô lớn, bao gồm 12 quốc gia thành viên, trong đó có những thành viên chưa có FTA với Việt Nam như Canada, Mexico, và Peru. Hiệp định này xóa bỏ đến 95% các dòng thuế quan giữa các quốc gia thành viên, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam gia tăng xuất khẩu.

+ Ngành dệt may: Ngành dệt may là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kể từ khi CPTPP có hiệu lực, các sản phẩm của ngành dệt may của Việt Nam có cơ hội tiếp cận các thị trường mới, đặc biệt một số thị trương mà Việt Nam chưa có FTA như Canada, Peru và Mexico với mức thuế suất ưu đãi hoặc bằng 0%. Số liệu thống kê cho thấy điều này giúp tăng khả năng cạnh tranh so với các quốc gia ngoài CPTPP. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, sau khi CPTPP được thực thi, xuất khẩu dệt may sang Canada đã tăng khoảng 11% trong năm đầu tiên.

+ Ngành thủy sản: Thủy sản, đặc biệt là cá tra và tôm, cũng được hưởng lợi lớn từ việc giảm thuế quan. Các thị trường như Nhật Bản và Mexico đã trở thành các điểm đến xuất khẩu quan trọng cho thủy sản Việt Nam, giúp tăng doanh thu và mở rộng thị trường cho ngành này. Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường CPTPP đã tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là Nhật Bản, nơi thuế quan đối với nhiều sản phẩm đã giảm mạnh.

+ Ngành nông sản: Sự xóa bỏ thuế quan đối với nông sản của Việt Nam như gạo, cà phê, và hạt điều đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành này tiếp cận tốt hơn với các thị trường khó tính như Nhật Bản và Canada. Điều này không chỉ giúp tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn tạo động lực để ngành nông nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm và phương pháp canh tác hiện đại.

- Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): CPTPP không chỉ là một hiệp định thương mại mà còn bao gồm các quy định về đầu tư, đặc biệt là bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế.

+ Thu hút vốn FDI[1]: CPTPP có tác động rất tích cực đối với việc thu hút FDI. Trong giai đoạn 2011-2015, khu vực FDI đóng góp 21,52% vào tăng trưởng kinh tế, tăng lên 25,1% trong giai đoạn 2016-2020, phản ánh vai trò ngày càng quan trọng của FDI trong nền kinh tế Việt Nam. Ngành công nghiệp, đặc biệt là chế biến và chế tạo, nhận vốn FDI lớn nhất, với sự tham gia của các tập đoàn công nghệ toàn cầu, tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.

Về xuất nhập khẩu, tỉ trọng của FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 65% giai đoạn 2011-2015 lên 71% giai đoạn 2016-2020. Năm 2020, khu vực FDI chiếm 72,3% tổng xuất khẩu, đạt 204,43 tỉ USD và xuất siêu 33,845 tỉ USD, giúp bù đắp nhập siêu của doanh nghiệp trong nước. Năm 2022, xuất khẩu FDI ước đạt 276,76 tỉ USD, chiếm 74,4% và tạo thặng dư thương mại kỉ lục 11,2 tỉ USD, chuyển dịch Việt Nam từ nhập siêu sang xuất siêu.

Điển hình là lượng FDI từ các nước mà Việt Nam chưa có FTA như Mexico và Canada tăng lên rất nhanh. Cụ thể, trước khi có Hiệp định, Mexico chưa có dự án đầu tư FDI nào vào Việt Nam, nhưng ngay sau khi ký hiệp định, nước này đã bắt đầu có các dự án đầu tư, mặc dù với những dự án có vốn khá khiêm tốn. Điển hình là trường hợp của Canada. Số vốn FDI đăng ký của Canada năm 2019 đạt 31,28 triệu USD, tăng 7,3 lần so với năm 2018. Tính đến 7/2023, tổng số vốn FDI đăng ký của Canada vào Việt Nam là 4,84 tỷ USD.

+ Chuyển giao công nghệ: Cùng với những tác động tích cức từ việc thu hút vốn FDI, CPTPP còn thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ và kiến thức quản lý từ các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài sang cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm của các ngành công nghiệp của Việt Nam.

+ Cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Những yêu cầu tương đối khăt khe, tiêu chuẩn cao về chất lượng sản phẩm, môi trường, lao động trong CPTPP, một mặt là những thách thức nhưng đồng thời cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam rà soát, cải tiến quy trình, công nghệ sản xuất, quy trình quản lý, các cơ quan quản lý nhà nước ban hành, áp dụng các chính sách tạo điều kiện, môi trường thuận lợi giảm thiểu thời gian, chi phí cho các doanh nghiệp. Những yếu tố này đã giúp cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế.

+ Cải cách thể chế và minh bạch hóa: Việc tham gia CPTPP đặt ra yêu cầu cần phải tiến hành cải cách, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp lý, chính sách để đảm bảo sự hài hòa, loại bỏ những quy định có tính xung đột so với các quy định trong CPTPP. Trên thực tế, sau khi tham gia CPTPP, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi, bổ sung hàng loạt văn bản, cơ chế, chính sách nhằm tạo ra một môi trường bình đẳng và minh bạch hơn cho các nhà đầu tư và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tuân thủ các quy định trong Hiệp định. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi số 07/2022/QH15 tháng 6 năm 2022 đã được sửa đổi theo hướng tăng cường việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, bằng sáng chế và các tác quyền liên quan. Luật này cũng đã có những quy định cụ thể về việc bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với dược phẩm, nông hóa phẩm theo tiêu chuẩn trong CPTPP. Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 cũng bổ sung nhiều quyền cho người lao động, trong đó cho phép thành lập “Tổ chức đại diện người lao động” tại doanh nghiệp không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Đây được coi là một cải cách theo hướng hài hòa với các quy định trong CPTPP. Luật Đấu thầu 2023 số 22/2023/QH15 ban hành ngày 23/6/2023 cũng đã có những quy định nhằm tăng cường tính minh bạch và công bằng trong hoạt động đấu thầu. Ngoài ra còn nhiều văn bản luật quan trọng khác như Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi 2020, Luật Đầu tư sửa đổi, Luật Doanh nghiệp sửa đổi đã có nhiều quy định mới, tiến bộ tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đảm bảo sự minh bạch, công bằng, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cắt giảm thủ tục hành chính, thời gian thực hiện, tạo sự hài hòa với các quy định trong Hiệp định.

2.2. Tác động tiêu cực

* Những tác động tiêu cực chung đến phát triển kinh tế

Thứ nhất, việc thực thi CPTPP sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh. Một trong những thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam là chất lượng và giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu còn khiêm tốn và phụ thuộc nhiều nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất trong nước. Do đó, việc thực thi CPTPP sẽ tạo điều kiện cho các nước tự do hóa thương mại với các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam thì sức ép cạnh tranh sẽ gia tăng đáng kể.

Thứ hai, việc thực thi CPTPP cũng đồng nghĩa với việc gia tăng các hàng rào phi thuế quan của các nước trong CPTPP và các quốc gia khác. Cùng với việc gỡ bỏ hàng rào thuế quan trong CPTPP thì hàng rào kỹ thuật phi thuế quan càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn, yêu cầu cao hơn đối với các doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.

Thứ ba, việc thực thi CPTPP giảm nguồn thu ngân sách do thực hiện lộ trình cắt giảm thuế trong CPTPP sẽ dẫn tới giảm nguồn thu NSNN đối với hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, tác động của việc giảm thuế đối với tổng thu NSNN khi thực thi CPTPP sẽ được bù đắp bằng thuế thu nhập doanh nghiệp do chi phí sản xuất của doanh nghiệp giảm cũng tác động tích cực đến nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp.

* Những tác động tiêu cực cụ thể

- Cạnh tranh với các đối thủ mạnh: Các ngành sản xuất trong nước, như nông nghiệp, sản xuất công nghiệp nhẹ, phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ các sản phẩm của các nước có nền nông nghiệp và công nghiệp tiên tiến hơn. Ví dụ, nông sản của Canada và Australia có chất lượng cao và giá cả cạnh tranh hơn, khiến cho nông sản Việt Nam gặp khó khăn trong việc duy trì thị phần ngay cả trong thị trường nội địa.

- Doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng thường có năng lực cạnh tranh thấp. Họ phải đối mặt với những đối thủ có quy mô lớn hơn, có công nghệ tiên tiến và khả năng tiếp cận vốn tốt hơn từ các quốc gia phát triển. Điều này có thể khiến một số doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước bị loại khỏi thị trường hoặc buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động.

- Tiêu chuẩn về lao động: CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải thực hiện các cam kết quốc tế về quyền lợi lao động, bao gồm việc bảo vệ quyền công đoàn và đảm bảo an toàn lao động. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải cải cách sâu rộng hệ thống luật pháp về lao động, đồng thời tăng cường giám sát để đảm bảo các tiêu chuẩn được tuân thủ trong thực tế. Quá trình này đòi hỏi thời gian và nguồn lực, gây áp lực lớn cho các cơ quan chức năng và doanh nghiệp trong nước.

- Tiêu chuẩn về môi trường: CPTPP đặt ra các yêu cầu khắt khe về bảo vệ môi trường, đòi hỏi các nước thành viên phải giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đối với môi trường. Điều này có thể làm tăng chi phí sản xuất đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng như sản xuất thép, xi măng, và hóa chất. Nếu không tuân thủ các quy định này, Việt Nam có thể phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt từ các đối tác thương mại trong khối.

- Sở hữu trí tuệ: CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về bảo vệ sở hữu trí tuệ, bao gồm bản quyền, bằng sáng chế, và thương hiệu. Điều này có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tiếp cận công nghệ và kiến thức quốc tế, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp như công nghệ thông tin và dược phẩm, nơi các quy định về bằng sáng chế rất nghiêm ngặt.

- Chênh lệch giữa các ngành kinh tế: Các ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, điện tử và chế biến thực phẩm có thể tận dụng CPTPP để mở rộng quy mô sản xuất và thị trường. Tuy nhiên, các ngành kinh tế ít cạnh tranh hơn, như nông nghiệp và dịch vụ truyền thống, có thể bị ảnh hưởng tiêu cực. Điều này dẫn đến sự chênh lệch về lợi ích kinh tế giữa các ngành, làm gia tăng bất bình đẳng trong xã hội.

- Chênh lệch giữa các vùng miền: Các khu vực kinh tế phát triển như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có khả năng tận dụng lợi ích từ CPTPP nhanh chóng hơn so với các vùng nông thôn hoặc khu vực kém phát triển khác. Điều này có thể làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng kinh tế giữa các vùng miền.

- Phụ thuộc vào xuất khẩu: Khi CPTPP tạo điều kiện cho xuất khẩu tăng trưởng, nền kinh tế Việt Nam ngày càng dựa vào xuất khẩu để duy trì tăng trưởng GDP. Nếu có sự suy giảm nhu cầu từ các thị trường chính trong CPTPP như Nhật Bản hay Canada, kinh tế Việt Nam sẽ dễ bị ảnh hưởng tiêu cực. Hơn nữa, việc quá tập trung vào xuất khẩu cũng làm giảm khả năng phát triển các ngành kinh tế nội địa.

- Phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài: Thu hút vốn FDI là một trong những yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhưng sự phụ thuộc vào FDI cũng tạo ra những rủi ro. Nếu các nhà đầu tư nước ngoài quyết định chuyển hướng đầu tư hoặc thu hẹp hoạt động do điều kiện kinh tế toàn cầu thay đổi, Việt Nam có thể mất đi một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển.

III. Giải pháp tận dụng cơ hội và giảm thiểu tác động tiêu cực của việc thực thi các cam kết trong CPTPP nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Thứ nhất, xây dựng các chiến lược cụ thể nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời cải cách các quy định về lao động và môi trường để đáp ứng các yêu cầu của hiệp định. Chính phủ cũng cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp họ tiếp cận các nguồn lực và thị trường mới.

Thứ hai, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Chính phủ cần triển khai các chính sách hỗ trợ tài chính, đào tạo và tư vấn kỹ thuật cho các DNNVV, giúp họ nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các chương trình hỗ trợ này có thể bao gồm các khoản vay ưu đãi, quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ và các khóa đào tạo về quản lý và marketing.

Thứ ba, cải cách quy định và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu các rào cản hành chính và tăng cường minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Chính phủ cần tiếp tục cải cách các quy định về sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và lao động để đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng logistics và công nghệ thông tin. Để hỗ trợ việc xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào hạ tầng logistics, bao gồm cả cảng biển, sân bay và hệ thống đường bộ. Đồng thời, việc phát triển hạ tầng công nghệ thông tin sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận với các thị trường toàn cầu một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Thứ năm, tiếp tục tái cơ cấu kinh tế. Việc cải cách cơ cấu kinh tế, đặc biệt là nâng cao vai trò của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ, là cần thiết để đáp ứng các thách thức và tận dụng cơ hội từ CPTPP. Chính phủ cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề. Chính phủ cần đầu tư vào hệ thống giáo dục và đào tạo nghề, đảm bảo rằng người lao động có đầy đủ kỹ năng và kiến thức cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp mới. Các chương trình đào tạo cần được thiết kế linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và các xu hướng phát triển công nghệ mới.

Thứ bảy, tăng cường đầu tư, thúc đẩy đổi mới công nghệ và R&D. Việt Nam cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu hợp tác với nhau để phát triển các sản phẩm và công nghệ mới. Các chính sách ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính cho các dự án R&D sẽ giúp thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới trong nền kinh tế.

 

Tài liệu tham khảo

 

  1. Ngô Văn Vũ và các tác giả (2020). Tác động của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với Việt Nam. Truy cập tại: https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tac-dong-cua-Hiep-dinh-94

  2. Bộ Công Thương Việt Nam. (2022). Tổng quan các cam kết về thuế mà các nước CPTPP dành cho Việt Nam. Truy cập tại: https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/tong-quan-cac-cam-ket-ve-thue-ma-cac-nuoc-cptpp-danh-cho-viet-nam.html

  3. Trần Thanh Tâm và các tác giả (2022). Các nhân tố tác động đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường các nước thành viên Hiệp định CPTPP. Truy cập tại: http://thuvienlamdong.org.vn:81/bitstream/DL_134679/54065/1/CVv132S82022052.pdf

  4. Tổng cục Thống kê. (2023). Niên giám thống kê 2023, Hà Nội, NXB Thống kê

  5. Bùi Thị Thanh Hoa (2023). Chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với thúc đẩy việc làm bền vững tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Truy cập tại: https://kinhtevadubao.vn/chuyen-dich-co-cau-lao-dong-gan-voi-thuc-day-viec-lam-ben-vung-tai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-29165.html

  6. Bộ Công Thương Việt Nam (2023). Báo cáo Xuất Nhập Khẩu Việt Nam 2023. Truy cập tại: https://trungtamwto.vn/thong-ke/26335-bao-cao-xuat-nhap-khau-viet-nam-nam-2023

  7. Vũ Huyền Trang (2023). Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách. Truy cập từ: https://tapchinganhang.gov.vn/dong-gop-cua-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-doi-voi-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2022-va-khuyen-nghi.htm



[1] Vũ Huyền Trang (2023). Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách. Truy cập từ: https://tapchinganhang.gov.vn/dong-gop-cua-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-doi-voi-kinh-te-viet-nam-giai-doan-2016-2022-va-khuyen-nghi.htm

Các bài khác
Tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư
Kết nối doanh nghiệp
Kết nối doanh nghiệp
Xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại
Tài liệu - Ấn phẩm
Tài liệu - Ấn phẩm
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG
TRUNG TÂM THAM VẤN WTO và FTAs
WTO