Phần 4: Chợ đầu mối nông sản
1. Chợ đầu mối nông sản
1.1. Chợ đầu mối nông sản chuyên ngành
1.1.1. Chợ đầu mối lúa gạo
- Theo số liệu, cả nước có 05 chợ đầu mối lúa gạo, phân bố ở nơi sản xuất tại các tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An và Cần Thơ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); tại tỉnh Ninh Bình của vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Trong đó, 01 chợ đầu mối lúa gạo cấp vùng là chợ đầu mối lúa gạo Cần Thơ, huyện Thốt Nốt, là đầu mối chế biến lúa gạo, ký kết hợp đồng, đấu thầu mua bán lúa gạo của vùng ĐBSCL và trực tiếp xuất khẩu gạo; 04 chợ cấp tỉnh.
- Các chợ đầu mối lúa gạo hiện đã hoàn tất giai đoạn I xây dựng kiên cố và bước đầu hoạt động.
- Hầu hết các chợ có qui mô lớn và phạm vi hoạt động rộng trong vùng, cả nước và xuất khẩu. Diện tích đất chợ từ 1- 7 ha đối với chợ cấp tỉnh và 20 ha đối với chợ cấp vùng, trong đó diện tích dưới 3 ha chỉ có 1 chợ. Khối lượng gạo mua bán bình quân trong vụ là 50 - 400 tấn/ ngày.
- Các đối tượng tham gia mua bán tại chợ là nông dân, người thu gom, thương lái, các hộ kinh doanh bán buôn, bán lẻ, nhà xay xát- chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu...Số lượng người tham gia hoạt động tại chợ từ trên 300 người.
- Các chợ đầu mối lúa gạo được thiết kế đều có khu quản lý, cửa hàng giao dịch và mua bán, sân phơi, kho chứa, các thiết bị máy quạt sạch, máy xay xát, đánh bóng và các công trình phụ trợ khác. Hệ thống phòng, chống và chữa cháy được thiết kế và tuân thủ tốt. Hệ thống xử lý nước thải, vật thải đảm bảo quy định. Đảm bảo các quy định về an toàn giao thông.
- Nông dân, thương lái, người thu gom chở lúa tới chợ trực tiếp giao dịch mua bán với doanh nghiệp hoặc cá nhân kinh doanh lúa gạo theo phương thức thuận mua vừa bán và theo giá sàn. Người mua có thể trả tiền trực tiếp cho nông dân hoặc thông qua ngân hàng trả giúp. Phương thức mua bán theo hợp đồng ở một vài chợ đã được thực hiện.
- Một số dịch vụ đã được cung cấp tại chợ như vệ sinh, bảo vệ, lao động bốc xếp, cân, phơi, xay xát, kiểm tra, bao bì - đóng gói... Còn các dịch vụ thanh toán, tín dụng, lưu trữ lúa gạo, cung cấp vật tư, chuyển giao công nghệ, thông tin, kiểm dịch... chưa được triển khai đầy đủ.
- Vốn đầu tư phát triển của một chợ từ 20 - 140 tỷ đồng, trong đó 50-70% từ ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương).
- Mô hình tổ chức quản lý chợ đầu mối lúa gạo là doanh nghiệp kinh doanh chợ được thực hiện ở 3 chợ (60%), còn lại là Ban quản lý chợ.
1.1.2. Chợ đầu mối rau quả
- Tổng số chợ đầu mối rau quả cả nước hiện có 12 chợ. Phân bố tại vùng ĐBSH 2 chợ (Hà Nội), vùng Đông Bắc Bộ 1 chợ (Hà Giang), vùng Bắc Trung Bộ 1 chợ (Hà Tĩnh), vùng Đông Nam Bộ 2 chợ (TP HCM), vùng ĐBSCL 6 chợ ( Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ). Phân bố tại nơi sản xuất tập trung là 9 chợ (75%) và tại nơi tiêu dùng tập trung là 3 chợ. Đặc biệt, riêng tỉnh Tiền Giang có tới 4 chợ đầu mối trái cây, trong đó có 1 chợ cấp vùng.
- Có 9 chợ đầu mối rau quả (75%) hiện đã hoàn tất việc xây dựng kiên cố, đang và bước đầu thực hiện hoạt động. Số chợ còn lại đang hoạt động trong điều kiện chợ lều lán hoặc bán kiên cố.
- Một số chợ có qui mô lớn và phạm vi hoạt động rộng trong vùng, cả nước và xuất khẩu. Diện tích đất chợ từ 0,4 - 5,2 ha đối với chợ cấp tỉnh và 12 - 20 ha đối với chợ cấp vùng, trong đó diện tích dưới 1,5 ha có 3 chợ (25%). Khối lượng rau quả mua bán bình quân hàng ngày từ 15 - 2000 tấn/ ngày, trong đó dưới 100 tấn/ngày có 5 chợ (42%).
- Các đối tượng tham gia mua bán tại chợ là nông dân, người thu gom, thương lái, các hộ kinh doanh bán buôn, bán lẻ, doanh nghiệp xuất khẩu,... số lượng hộ kinh doanh tại chợ từ 40 - 933 hộ, trong đó dưới 400 hộ có 5 chợ (42%).
- Các chợ đầu mối rau quả được thiết kế và xây dựng kiên cố đều có khu quản lý, cửa hàng, sạp hàng giao dịch và mua bán, kho bảo quản, bãi giao dịch và mua bán ngoài trời, thiết bị làm sạch, phân loại và xử lý, bảo quản quả tươi, sơ chế rau quả và các công trình phụ trợ khác. Hệ thống phòng, chống và chữa cháy được thiết kế và tuân thủ tốt. Hệ thống xử lý nước thải, vật thải đảm bảo quy định. Đảm bảo các quy định về an toàn giao thông. Còn các chợ chưa được xây dựng kiên cố thì chưa đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về vệ sinh môi trường, phòng chống cháy và an toàn giao thông.
- Phương thức mua bán, đàm phán, mặc cả trực tiếp được sử dụng ở các chợ, phương thức mua bán theo hợp đồng cũng đã được thực hiện ở 7 chợ (58%).
- Một số dịch vụ đã được cung cấp tại chợ như vệ sinh, bảo vệ, lao động bốc xếp, cân, bao bì - đóng gói, thanh toán, tín dụng, kiểm dịch... còn các dịch vụ cung cấp vật tư, chuyển giao công nghệ, thông tin, tư vấn... chưa được triển khai đầy đủ.
- Vốn đầu tư của một chợ đã được xây dựng kiên cố từ 11,3-320 tỷ đồng, trong đó 60-90% từ ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương).
- Mô hình tổ chức quản lý chợ đầu mối lúa gạo là doanh nghiệp kinh doanh chợ được thực hiện ở 4 chợ (28%), còn lại là Ban quản lý chợ.
1.1.3. Chợ đầu mối thuỷ sản
- Chợ đầu mối thuỷ sản cả nước hiện có 6 chợ. Phân bố tại vùng ĐBSH 3 chợ (Thái Bình, Nam Định), vùng DHNTB 1 chợ (Khánh Hoà), vùng ĐBSCL 2 chợ (Bến Tre). Phân bố tại nơi sản xuất tập trung là 4 chợ (60%) và tại nơi tiêu dùng tập trung là 2 chợ. Đặc biệt, các tỉnh Thái Bình và Bến Tre có tới 2 chợ đầu mối thuỷ sản.
- Có 5 chợ đầu mối thuỷ sản (85%) hiện đã hoàn tất việc xây dựng kiên cố và bước đầu thực hiện hoạt động. Còn 1 chợ đang ở tình trạng bán kiên cố.
- Hiện chưa có chợ có qui mô lớn và phạm vi hoạt động rộng trong vùng, cả nước và xuất khẩu. Diện tích đất chợ từ 0,3 - 6 ha, trong đó diện tích dưới 1,5 ha có 2 chợ (33%). Khối lượng thuỷ sản mua bán bình quân hàng ngày ở 4 chợ đã hoạt động từ 40 -140 tấn/ ngày, trong đó dưới 100 tấn/ngày có 3 chợ.
- Các đối tượng tham gia mua bán tại chợ là ngư dân, nông dân, người thu gom, thương lái, các hộ kinh doanh bán buôn, bán lẻ, doanh nghiệp xuất khẩu... số lượng hộ kinh doanh tại 4 chợ đã hoạt động từ 150 - 500 hộ, trong đó dưới 400 hộ có 2 chợ.
- Các chợ đầu mối thuỷ sản được thiết kế và xây dựng kiên cố đều có khu quản lý, cửa hàng, sạp hàng giao dịch và mua bán, kho bảo quản, bãi giao dịch và mua bán ngoài trời, khu phân loại và xử lý, sơ chế và các công trình phụ trợ khác. Hệ thống phòng, chống và chữa cháy được thiết kế và tuân thủ tốt. Hệ thống xử lý nước thải, vật thải đảm bảo quy định. Đảm bảo được các quy định về an toàn giao thông.
- Các phương thức mua bán, giao dịch được sử dụng ở 4 chợ đã hoạt động bao gồm cả phương thức mua bán giao ngay và theo hợp đồng (100%).
- Một số dịch vụ đã được cung cấp tại chợ như kiểm dịch, kiểm định; vệ sinh, bảo vệ; bốc dỡ, vận chuyển, bao bì, bảo quản... còn các dịch vụ cung cấp vật tư, chuyển giao công nghệ, thông tin, tư vấn, tài chính... chưa được triển khai đầy đủ.
- Vốn đầu tư của một chợ đã được xây dựng kiên cố từ 6 - 40 tỷ đồng, trong đó 3 chợ được xây dựng với nguồn vốn đầu tư 50 - 80% từ ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) và 2 chợ với mức dưới 30%.
- Mô hình tổ chức quản lý chợ đầu mối thuỷ sản là doanh nghiệp kinh doanh chợ được thực hiện ở 1 chợ (17%), còn lại là Ban quản lý chợ.
1.2. Chợ đầu mối nông sản đa ngành
- Tổng số chợ đầu mối nông sản đa ngành cả nước hiện có 21 chợ. Phân bố tại vùng ĐBSH 2 chợ (Hà Nội,Thái Bình), vùng Đông Bắc Bộ 5 chợ (Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ), vùng Tây Bắc Bộ 1 chợ (Hoà Bình), vùng Bắc Trung Bộ 2 chợ (Hà Tĩnh), vùng DHNTB 3 chợ (Đà Nẵng, Bình Định), vùng Tây Nguyên 1 chợ (Lâm Đồng), vùng Đông Nam Bộ 2 chợ (Bình Dương, TP HCM), vùng ĐBSCL 5 chợ (Trà Vinh, Hậu Giang, Cà Mau). Phân bố tại nơi sản xuất tập trung là 17 chợ (80%) và tại nơi tiêu dùng tập trung là 4 chợ. Một số tỉnh như Hà Tĩnh, Yên Bái, Bình định, Trà Vinh, Hậu Giang đều có từ 2 chợ đầu mối nông sản đa ngành.
- Có 11 chợ đầu mối nông sản đa ngành (52%) đã được xây dựng kiên cố và mới đưa vào hoạt động. Còn 10 chợ đang hoạt động ở tình trạng xây dựng bán kiên cố hoặc lều, lán tạm.
- Hiện đã có một số chợ có qui mô lớn và phạm vi hoạt động rộng trong vùng, cả nước và xuất khẩu, như chợ Bình Điền- TP HCM. Diện tích đất chợ từ 0,5- 65 ha, trong đó diện tích dưới 3 ha có 10 chợ (48%). Khối lượng nông sản mua bán bình quân hàng ngày ở chợ từ 20- 1.100 tấn/ ngày, trong đó dưới 100 tấn/ngày có 7 chợ ( 33 %).
- Các đối tượng tham gia mua bán tại chợ là ngư dân, nông dân, người thu gom, thương lái, các hộ kinh doanh bán buôn, bán lẻ, người tiêu dùng... Số lượng hộ kinh doanh tại chợ từ 100- 2000 hộ, trong đó dưới 400 hộ có 7 chợ ( 33%).
- Các chợ đầu mối nông sản được thiết kế và xây dựng kiên cố đều có khu quản lý; cửa hàng, sạp hàng, ô vựa giao dịch và mua bán; kho bảo quản và lưu trữ; sân bãi giao dịch và mua bán ngoài trời và các công trình phụ trợ khác. Hệ thống phòng, chống và chữa cháy được thiết kế và tuân thủ tốt. Hệ thống xử lý nước thải, vật thải đảm bảo quy định. Đảm bảo được các quy định về an toàn giao thông.
- Phương thức mua bán, giao dịch được sử dụng ở hầu hết các chợ là phương thức mua bán giao ngay.
- Một số dịch vụ đã được cung cấp tại chợ như vệ sinh, bảo vệ; bốc dỡ, vận chuyển, bao bì, bảo quản... Còn các dịch vụ kiểm dịch, kiểm định vệ sinh an toàn thực phẩm; thông tin, tư vấn, tài chính... hầu hết chưa được triển khai đầy đủ.
- Vốn đầu tư của một chợ đã được xây dựng kiên cố từ 6- 1000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước( trung ương và địa phương) 20- 60%.
- Mô hình tổ chức quản lý chợ đầu mối nông sản tổng hợp là doanh nghiệp kinh doanh chợ được thực hiện ở 3 chợ ( 14%), còn lại là Ban quản lý chợ.
2. Sự phát triển các loại chợ đầu mối nông sản
2.1. Đặc điểm phân bố mạng lưới chợ đầu mối nông sản
Tổng số chợ đầu mối nông sản chuyên ngành lúa gạo, rau quả, thuỷ sản và chợ đầu mối nông sản đa ngành của cả nước hiện có 44 chợ. Sự phân bố chợ đầu mối nông sản ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Việc hình thành và phát triển các chợ đầu mối nông sản thường tập trung trước hết ở những vùng có nhu cầu tiêu thụ nông sản cao.
Số lượng chợ bán buôn nông sản được hình thành hay mới được đầu tư xây dựng chủ yếu tập trung tại các vùng có tỷ lệ dân cư đô thị cao. Đây là những vùng có qui mô tiêu thụ nông sản lớn hơn; các điều kiện giao thông vận tải, viễn thông,…đều phát triển hơn và đáp ứng tốt hơn cho hoạt động kinh doanh tại các chợ đầu mối; số hộ gia đình tham gia kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cũng đông hơn, có tính chuyên nghiệp hơn và họ là động lực thúc đẩy quá trình phát triển của chợ. Tuy vậy, hiện nay nhiều chợ được xây dựng trên nền chợ bán buôn truyền thống ở khu vực trung tâm đô thị, hoặc do quá trình mở rộng đô thị nên hiện bị hạn chế về quy mô diện tích, không có khả năng mở rộng diện tích và các hoạt động của chợ, việc vận chuyển hàng hoá ra, vào chợ bị trở ngại, ảnh hưởng đến văn minh đô thị... Vì vậy, cần phải xây dựng mới chợ bán buôn nông sản hiện đại ở ngoại vi đô thị kết hợp với việc di dời các hộ kinh doanh hiện có ở các chợ bán buôn cũ để đảm bảo sự phát triển lâu dài và hiệu quả của chợ bán buôn nông sản ở nơi tiêu thụ tập trung phù hợp với quy hoạch đô thị ở từng địa phương.
- Việc hình thành và phát triển các chợ đầu mối nông sản ở các vùng sản xuất thường gắn với các vùng có khả năng khai thác tiềm năng nông, ngư nghiệp.
Vùng ĐBSCL có tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp chiếm 74,53% tổng diện tích vùng và chiếm 38,6% số chợ đầu mối nông sản của cả nước. Tiếp đến, vùng ĐBSH có 57,76% diện tích đất nông nghiệp và chiếm 18,2% số chợ đầu mối nông sản.
- Việc hình thành và phát triển các chợ đầu mối nông sản dựa trên sự phát triển cả từ phía cung và phía cầu về hàng hoá nông sản.
Theo điều tra cho thấy, một mặt các chợ đầu mối nông sản mới được đầu tư xây dựng là các chợ nông sản đa ngành. Các chợ này được xây dựng nhằm tập hợp hay thu hút các nguồn hàng nông sản (nuôi và trồng) rất phong phú đa dạng. Về phát luồng, đây là các chợ đầu mối nông sản phân phối hàng hoá cho hệ thống kinh doanh bán lẻ và nhu cầu tiêu dùng của các khu đô thị có quy mô tiêu dùng lớn. Mặt khác, các chợ đầu mối mới được đầu tư xây dựng gắn với các ngành hàng nông, thuỷ sản chủ yếu lưu thông qua chợ như gạo, trái cây, thuỷ sản.... Đây là những ngành hàng nông sản gắn liền với tiềm năng về đất nông, ngư nghiệp vượt trội của một số vùng nông thôn nước ta.
Mặc dù, số lượng các chợ đầu mối nông sản chuyên ngành được đầu tư xây dựng trong những năm vừa qua tương đương với số lượng các chợ đầu mối nông sản đa ngành, nhưng sự gia tăng nguồn cung ứng nông sản trong nước theo các vùng sản xuất tập trung sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển chợ đầu mối nông sản chuyên ngành.
2.2. Cơ sở vật chất của chợ đầu mối nông sản
- Việc phát triển các chợ đầu mối nông sản ở nước ta đến nay chủ yếu mới trong giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
Sự hình thành và phát triển chợ đầu mối nông sản thường phải qua 3 giai đoạn chủ yếu sau: hình thành những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của chợ đầu mối; các chợ đầu mối được xác lập cơ sở đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện các chức năng của nó; tổ chức hoạt động của các chợ đầu mối nông sản trong mối quan hệ phân công và hợp tác với các loại hình thương mại bán lẻ khác trong hệ thống thị trường nông sản. Đến nay, hầu hết các chợ đầu mối nông sản hiện có ở trong giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và chỉ có rất ít trong số đó bước đầu tổ chức hoạt động chợ. Những vùng kém phát triển hơn như Tây Bắc, Đông Bắc, DHNTB và tại nhiều địa phương trong các vùng phát triển vẫn đang trong giai đoạn hình thành các điều kiện kinh tế – xã hội cho sự ra đời của chợ đầu mối nông sản.
- Về những công trình và trang thiết bị cần thiết của chợ đầu mối
Hầu hết các chợ đầu mối nông sản mới xây dựng đã đảm bảo được các qui định về bố trí các khu vực chức năng. Các chợ đầu mối nông sản được thiết kế, về cơ bản, phù hợp với qui mô, tính chất và phạm vi hoạt động của chợ đầu mối, đáp ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước về vệ sinh môi trường, phòng chống cháy, trật tự và an toàn giao thông.
Tuy nhiên,việc xây dựng các công trình, cũng như việc bố trí các khu vực chức năng trong từng chợ đầu mối nông sản phụ thuộc chủ yếu vào qui mô vốn đầu tư xây dựng, sau đó là diện tích mặt bằng được dành cho xây dựng chợ đầu mối. Vì vậy, qui mô các công trình và trình độ trang thiết bị của các chợ đầu mối nông sản giữa các chợ trong một vùng và giữa các vùng với nhau cũng có sự chênh lệch đáng kể.Trong đó, chợ đầu mối nông sản Bình Điền, TP Hồ Chí Minh có cơ sở vật chất hiện đại nhất hiện nay.
2.3. Tổ chức cung ứng dịch vụ ở các chợ đầu mối nông sản
Việc tổ chức và cung ứng các dịch vụ và dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá của người sản xuất và các thương nhân tại các chợ đầu mối nông sản có ý nghĩa quan trọng và đang ngày càng trở nên cần thiết hơn cùng với sự gia tăng của các nguồn cung và nhu cầu tiêu thụ. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn hoạt động tại chợ đầu mối nông sản ở nước ta hiện nay cho thấy:
+ Các chợ đầu mối nông sản hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào cung cấp dịch vụ về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư xây dựng chợ và cho thuê điểm kinh doanh trên chợ;
+ Các dịch vụ về vận tải, giao nhận hàng hoá lưu thông qua chợ đã tương đối phát triển, nhưng hầu hết được hình thành tự phát tại các chợ đầu mối nông sản và qui mô cung cấp dịch vụ này cũng còn nhỏ lẻ, chủ yếu do các cá nhân thực hiện;
+ Dịch vụ giám định và kiểm tra chất lượng hàng hoá lưu thông qua chợ tuy đã được thực hiện tại các chợ, nhưng thường là do các cơ quan quản lý Nhà nước (quản lý thị trường, y tế, môi trường) thực hiện mang tính nhất thời vào những thời điểm có phát sinh bệnh tật, hoặc khi phát hiện có hàng giả, hàng kém chất lượng được lưu thông qua chợ. Điều đáng lưu ý là dịch vụ này chưa được thực hiện một cách thường xuyên theo nghĩa kinh doanh dịch vụ phục vụ cho cả người mua và người bán, người tiêu dùng và các thương nhân đang tham gia kinh doanh trên chợ. Vì vậy, chính các thương nhân kinh doanh trên chợ - đối tượng chính trong những đợt kiểm tra của các cơ quan Nhà nước – cũng thường mua phải những hàng hoá kém chất lượng, hàng giả gây thiệt hại cho bản thân họ và cho người tiêu dùng;
+ Dịch vụ tài chính, bao gồm cả dịch vụ ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm hầu như chưa được tổ chức và cung ứng tại các chợ, kể cả những chợ đầu mối nông sản quy mô lớn.
+ Các loại dịch vụ phân loại, bao gói, bảo quản hàng hoá nông sản tại các chợ đầu mối chưa thực sự rõ nét và cũng mới đang được định hình cùng với quá trình đầu tư xây dựng chợ đầu mối nông sản.
+ Các dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các thương nhân trên chợ, cũng như người cung cấp (nông dân) như dịch vụ tư vấn, cung cấp thông tin thị trường, dịch vụ quảng cáo, dịch vụ kế toán, dịch vụ tư vấn pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực ký kết hợp đồng, đảm bảo thanh toán…đều rất kém phát triển và thậm chí chưa được đề cập đến trong các phương án xây dựng chợ đầu mối nông sản hiện nay.
Nhìn chung, việc tổ chức cung ứng các loại dịch vụ và dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh tại các chợ và chợ đầu mối nông sản ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân của những hạn chế này xuất phát từ cả hai phương diện sau:
Một là, hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá với qui mô kinh doanh của các thương nhân tại các chợ vẫn phổ biến ở qui mô nhỏ, phạm vi hẹp. Bên cạnh đó, các chợ đầu mối nông sản hoặc là có không gian hoạt động quá chật chội đang cần di chuyển, hoặc là đang trong giai đoạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chưa hay mới được đưa vào khai thác sử dụng gần đây. Do đó, nhu cầu sử dụng các dịch vụ và dịch vụ hỗ trợ của các thương nhân trong hoạt động kinh doanh còn thấp và chưa đủ sức kích thích hoạt động cung ứng dịch vụ phát triển.
Hai là, cơ quan quản lý nhà nước chưa có định hướng phát triển và ban hành cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh tại chợ đầu mối. Thêm vào đó, những ngành dịch vụ trong nền kinh tế vẫn đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường đã hạn chế khả năng định hướng phát triển của những ngành này theo nhu cầu thị trường nói chung và nhu cầu sử dụng dịch vụ tại các chợ đầu mối nông sản nói riêng. Về chính sách, Nghị định 02 và Quyết định 559 mới chủ yếu đề cập đến cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng cơ sở vật chất chợ đầu mối nông sản để đảm bảo cung cấp các dịch vụ gắn liền với cơ sở vật chất kỹ thuật, như cho thuê điểm kinh doanh trên chợ, cung cấp dịch vụ kho bãi, vận chuyển, bốc xếp hàng hoá,... Trong khi đó, cơ chế và chính sách cung cấp các dịch vụ, trừ việc cho thuê điểm kinh doanh, lại chưa được đề cập, hoặc dẫn chiếu các qui định có liên quan. Ngoài ra, các dịch vụ ít hoặc không liên quan đến cơ sở vật chất của chợ như dịch vụ kiểm toán đối với các hộ kinh doanh, dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ ngân hàng,… chưa được đề cập đến như một trong những vấn đề cần được tổ chức, quản lý và cung ứng tại các chợ đầu mối nông sản.
2.4. Quản lý thương nhân ở các chợ đầu mối nông sản
Hiện nay, ở nước ta, thương nhân hoạt động thường xuyên và cố định ở các chợ đầu mối nông sản chủ yếu là các loại hình kinh tế tư nhân (các cá thể, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân,…).Để tham gia kinh doanh trên chợ, các thương nhân phải ký hợp đồng mua quyền sử dụng hoặc thuê điểm kinh doanh tại chợ với doanh nghiệp hoặc Ban quản lý chợ. Đồng thời, các thương nhân tham gia kinh doanh trên chợ phải chấp hành “Nội quy chợ” do đơn vị quản lý chợ xây dựng trên cơ sở 9 điểm được ghi tại khoản 1 điều 10 của Nghị định 02/NĐ-CP. Nội quy chợ, về thực chất, là việc cụ thể hoá những qui định hiện hành của pháp luật có liên quan đến việc quản lý chợ và quản lý các thương nhân kinh doanh tại các chợ. Tuy nhiên, các chợ thường chưa xây dựng nội quy chợ một cách đầy đủ, mà chủ yếu mới chỉ có nội quy về phòng chống cháy. Thực tế, ở nước ta, trình độ nhận thức về các qui định pháp luật về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của các hộ còn nhiều hạn chế. Do đó, việc vận dụng và chấp hành những quy định của luật pháp và các chính sách vào hoạt động kinh doanh của các hộ kinh doanh tại các chợ còn yếu và mắc nhiều sai phạm.
Nhìn chung, các thương nhân tham gia kinh doanh ở chợ đầu mối được quản lý trên các phương diện sau:
- Quản lý về đăng ký kinh doanh: Việc cấp đăng ký kinh doanh cho các hộ kinh doanh hiện nay do cấp quận, huyện quản lý; doanh nghiệp và công ty tư nhân do cấp tỉnh, thành phố quản lý. Đối với các hộ kinh doanh tại các chợ đầu mối nông sản, việc cấp đăng ký kinh doanh cũng do cấp quận, huyện thực hiện, nhưng việc tổ chức sắp xếp các hộ kinh doanh trên chợ do cấp quản lý chợ thực hiện có thể là cấp quận, huyện hay tỉnh, thành phố thực hiện.
- Quản lý về thu nộp thuế theo qui định: Các thương nhân tham gia kinh doanh trên chợ đầu mối nông sản phải nộp các loại thuế như thuế môn bài và thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế việc thu thuế đối với thương nhân ở các chợ còn có những khó khăn, như không thực hiện đăng ký mã số thuế, nhất là các hộ chỉ kinh doanh vào thời điểm buổi sáng và buổi tối, hộ kinh doanh thời vụ, vãng lai...; Hàng tháng không nộp tờ kê khai thuế; Xin nghỉ hoạt động để được miễn thuế nhưng thực tế vẫn kinh doanh bình thường; Về quản lý doanh thu tính thuế và công tác kế toán hộ kinh doanh có các hiện tượng phổ biến là kê khai không đúng doanh thu thực tế, khai thấp giá bán và số lượng hàng bán, để ngoài sổ sách kế toán, ghi sai thuế suất,... Về phía cơ quan quản lý thuế, cũng có tình trạng cán bộ thuế thoả hiệp với đối tượng nộp thuế để giảm bớt số thuế phải nộp thông qua việc xác định doanh thu, ấn định mức thuế khoán, xem xét miễn giảm thuế, cũng như việc áp giá tính thuế đối với hàng hoá tiêu thụ, áp dụng sai thuế suất (thấp hơn quy định) cho từng ngành nghề, mặt hàng; Tình trạng các hộ kinh doanh thường kéo dài thời gian nộp thuế.
- Quản lý hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, đảm bảo an toàn phòng chống cháy.
Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu quản lý đối với hoạt động của các chợ đang có sự chồng chéo về nội dung trong thanh tra, kiểm tra giữa bốn cơ quan: Thuế; Cảnh sát kinh tế, Quản lý thị trường và Kiểm toán về chế độ tài chính kế toán. Bên cạnh đó, trong các lĩnh vực chuyên ngành khác cũng đang có sự chồng chéo. Điều này gây khó khăn cho kinh doanh và tạo sức ép tâm lý nặng nề đối với các hộ kinh doanh.
Vấn đề phối hợp giữa đơn vị quản lý chợ với cơ quan cấp phép kinh doanh, cơ quan quản lý thu thuế và các cơ quan quản lý nhà nước khác đối với hoạt động kinh doanh của các hộ trên chợ thường không chặt chẽ. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nhiều hộ tham gia kinh doanh trên chợ lại không có giấy phép kinh doanh, tình trạng thất thu thuế, tình trạng mất vệ sinh, an toàn thực phẩm tại các chợ đầu mối nông sản.
Một trong những vấn đề đáng quan tâm hiện nay trong việc quản lý nhà nước đối với các thương nhân tham gia hoạt động kinh doanh trên các chợ đầu mối là xác định rõ vai trò và chức năng của đơn vị quản lý chợ. Theo Nghị định 02/NĐ-CP, các chợ đầu mối được hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng chợ sẽ do UBND tỉnh lựa chọn chủ thể khai thác và quản lý chợ. Do đó, đơn vị quản lý chợ đầu mối, một mặt “có trách nhiệm quản lý tài sản nhà nước và các hoạt động trong phạm vi chợ…” (khoản 2 điều 8). Nhưng mặt khác, với tư cách là đơn vị sự nghiệp có thu, đơn vị quản lý chợ lại tiến hành “tổ chức kinh doanh các dịch vụ chợ…” (điều 9). Như vậy, đơn vị quản lý chợ phải thực hiện đồng thời cả chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý kinh doanh. Nếu đơn vị quản lý chợ thực hiện chức năng quản lý kinh doanh chợ thì mối quan hệ với các thương nhân đang hoạt động kinh doanh trên chợ sẽ có sự khác biệt rất nhiều so với việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chợ.
Vũ Huy Hùng
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT