Ngay từ đầu năm các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chủ động thực hiện kế hoạch sản xuất, góp phần đưa giá trị sản xuất công nghiệp quý I/2023 tăng 9,7% so với cùng kỳ, trong đó ngành sản xuất truyền tải và phân phối điện có tốc độ tăng cao. Hoạt động thương mại, dịch vụ duy trì ổn định và tăng trưởng; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2023 tăng 18% so với cùng kỳ. Đảm bảo cân đối cung cầu, bình ổn giá hàng hóa thiết yếu; hoạt động thương mại dịch vụ diễn ra thông suốt, thị trường ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân cụ thể như sau:
1. Về sản xuất công nghiệp
Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Thái Bình, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 3/2023 tăng 5,1% so tháng 02/2023, trong đó: ngành Khai khoáng đạt 91,5%, Công nghiệp chế biến chế tạo đạt 99,3%, Sản xuất và phân phối điện tăng 30,7%, Cung cấp nước và hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải đạt 96,5% so tháng trước.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tính quý I/2023 so cùng kỳ năm trước tăng 13,9%, trong đó: ngành Khai khoáng tăng 13,5%, ngành Công nghiệp chế biến chế tạo tăng 5,8%, sản xuất và phân phối điện tăng 55,7%, cung cấp nước và hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,7%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng 3/2023 có tốc độ tăng cao so với tháng trước như Bia hơi tăng 84%; Bia chai tăng 50%; điện sản xuất tăng 34,3%; Khăn mặt, khăn tắm và khăn khác dùng trong phòng tăng 9,8%... Tuy nhiên trong tháng 3/2023 một số sản phẩm giảm như: Bộ dây đánh lửa và bộ dây khác sử dụng cho xe có động cơ đạt 95%; Cần gạt nước, sương, tuyết trên kính chắn đạt 84,3%; Dịch vụ tráng phủ kim loại bằng cách nhúng vào kim loại chảy đạt 78,9%...
Ước chung quý I/2023, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ như: Sắt thép không hợp kim dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng 2,5 lần; Thép cán tăng 40,1%; Bia chai tăng gần 9 lần; khăn mặt, khăn tắm và khăn khác tăng 26,7%; tai nghe khác tăng hơn 6 lần; điện sản xuất tăng 61,8%... Tuy nhiên một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Khí tự nhiên dạng khí giảm 26,6%; gạch xây bằng đất nung giảm 35%; bộ comple, quần áo đồng bộ giảm 2,8%; polyaxetal, polyeste giảm 45,6%; áo sơ mi cho người lớn giảm 26,8%; cần gạt nước sương tuyết giảm 46%...
Chỉ số tiêu thụ: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp tháng 3/2023 giảm 0,8% so với tháng trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 7,8%).
Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 4,9% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 38,1% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước giảm 60,3%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2023 là 44,9% (bình quân quý I/2022 là 10,5%).
Chỉ số sử dụng lao động: Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2023 tăng 1,1% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 0,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó: Lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,1% và tăng 18,8%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,9% và giảm 1,8%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,4% và tăng 0,6%. Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng ổn định so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 3,7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,1% và giảm 0,7%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,3% và giảm 1,7%.
Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2023 cho thấy: Có 15,1% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV/2022; 35,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 49,1% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.
Dự kiến quý II/2023, có 49,7% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2023; 35,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 14,5% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 76,5% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2023 tốt lên và giữ ổn định so với quý I/2023; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước lần lượt là 83,3% và 88,2%.
2. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Trong quý I/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 18% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách tăng 25,3%; luân chuyển hành khách tăng 26,3% và vận chuyển hàng hóa tăng 10,4%; luân chuyển hàng hóa tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3/2023 ước đạt 5.463 tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 15,1% so với cùng kỳ. Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 4.790 tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 14,8% so với cùng kỳ. Tất cả các nhóm hàng đều tăng so với cùng kỳ như: nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 32,8%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 32,4%; nhóm phương tiện đi lại tăng 19,4%; nhóm sữa chữa xe có động cơ tăng 12,1%; nhóm đá quý, kim loại quý tăng 11,8%; nhóm xăng dầu các loại tăng 11,3%; nhóm hàng hóa khác tăng 11,1%; nhóm hàng may mặc tăng 9,5%;… Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 13 tỷ đồng, tăng 4,2% và tăng 18,7%; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 387 tỷ đồng, tăng 3,1% và tăng 32,4%; doanh thu dịch vụ lữ hành đạt 1 tỷ đồng, tăng 7,6% và tăng 4,2 lần; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 272 tỷ đồng, giảm 5,8% và tăng 1%.
Tính chung quý I/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 16.878 tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ. Theo ngành kinh tế, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 14.814 tỷ đồng, chiếm 87,8% tổng mức và tăng 17,4% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ tăng cao so với cùng kỳ do năm trước ảnh hưởng của dịch bệnh nên nhu cầu tiêu dùng bị hạn chế, bên cạnh đó giá cả hàng hóa trong 3 tháng đầu năm nay tăng đã tác động tăng doanh thu bán lẻ hàng hóa. Trong quý chỉ có nhóm đá quý, kim loại quý giảm 10%, các nhóm hàng còn lại đều tăng so với cùng kỳ như: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 4.738 tỷ đồng, tăng 12,6%; nhóm xăng dầu các loại đạt 2.685 tỷ đồng, tăng 20,4%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt 2.372 tỷ đồng, tăng 29,3%; nhóm đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình đạt 1.641 tỷ đồng, tăng 6,5%; nhóm hàng hóa khác đạt 981 tỷ đồng, tăng 13,8%; nhóm phương tiện đi lại đạt 918 tỷ đồng, tăng 28,4%; nhóm hàng may mặc đạt 629 tỷ đồng, tăng 26,3%;…
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành quý I/2023 ước đạt 1.198 tỷ đồng, chiếm 7,1% tổng mức và tăng 36,2% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 38 tỷ đồng, tăng 24,2%; dịch vụ ăn uống ước đạt 1.157 tỷ đồng, tăng 36,4%; dịch vụ lữ hành ước đạt 3,2 tỷ đồng, tăng 3,8 lần so với cùng kỳ.
Doanh thu dịch vụ khác quý I/2023 ước đạt 866 tỷ đồng, chiếm 5,1% tổng mức và tăng 6% so với cùng kỳ; trong đó: bất động sản giảm 4,5% do ảnh hưởng từ lãi suất ngân hàng cho vay đã tác động mạnh đến thị trường bất động sản; dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 15,2% chủ yếu do doanh thu cho thuê phông bạt và đồ dùng gia đình tăng cao; dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 15,2% do tỉnh chỉ đạo thắt chặt việc dạy thêm của giáo viên các cấp; dịch vụ y tế tăng 20,4%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí giảm 6% do dịch vụ karaoke bị ảnh hưởng bởi quy định về phòng cháy chữa cháy nên rất ít cơ sở mở cửa; dịch vụ khác tăng 4,4%.
Giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2023 giảm 0,40% so với tháng trước; tăng 1,75% so với cùng tháng năm trước và giảm 1,09% so với tháng 12 năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm so với tháng trước: 9 nhóm hàng có chỉ số giá ổn định.
Một số nguyên nhân tác động đến chỉ số giá tháng 03/2023 so với tháng trước: Nhóm thực phẩm giảm 1,62% tác động CPI chung giảm 0,13 điểm phần trăm, do lượng lợn tái đàn xuất chuồng nhiều nhưng lượng tiêu thụ giảm dẫn đến giá thịt lợn hơi giảm, kéo theo thịt lợn thành phẩm giảm. Nhóm giao thông giảm 0,22%, do tác động của giá xăng dầu giảm vào ngày 02/02/2023 và ngày 22/02/2023 (xăng 95 giảm 910 đồng/lít; xăng E5 giảm 920 đồng/lít; dầu điezen giảm 1.750 đồng/lít; dầu hỏa giảm 1.620 đồng/lít), ngày 14/03/2023 giá xăng dầu tăng (xăng 95 tăng 500 đồng/lít; xăng E5 tăng 390 đồng/lít; dầu điezen tăng 250 đồng/lít; dầu hỏa tăng 240 đồng/lít). Do kinh tế thế giới suy thoái, nhu cầu sử dụng nhiên liệu giảm, giá xăng dầu thế giới giảm, kéo theo giá bán lẻ trong nước giảm.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I/2023 tăng 3,50% so với cùng kỳ năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính chỉ có nhóm bưu chính viễn thông ổn định, nhóm giao thông có chỉ số giá giảm 3,04% do giá xăng dầu giảm; 9/11 nhóm hàng còn lại có chỉ số giá tăng.
Xuất nhập khẩu hàng hoá
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 319 triệu USD, giảm 3% so với tháng trước và giảm 28,2% so với cùng kỳ. Tính chung quý I/2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 968 triệu USD, giảm 12,9% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu tăng 0,6%, nhập khẩu giảm 24,7%.
Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu tháng 3/2023 ước đạt 161 triệu USD, giảm 9,4% so với tháng trước và giảm 8,9% so với cùng kỳ. Nguyên nhân do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tế toàn cầu, tiêu dùng chững lại; bên cạnh đó giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao đẩy giá thành sản phẩm tăng trong khi đơn giá xuất khẩu không tăng, buộc doanh nghiệp ngừng hoặc cầm chừng sản xuất chờ giá. Một số doanh nghiệp lớn đơn hàng đã có tuy nhiên thời gian và tiến độ xuất khẩu đang còn phụ thuộc vào các đối tác. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 74 triệu USD, giảm 30,4% so với tháng trước và giảm 29,2% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 87 triệu USD, tăng 22% so với tháng trước và tăng 20,5% so với cùng kỳ. Hầu hết các mặt hàng đều giảm so với tháng trước như: Hàng dệt may đạt 92,7 triệu USD, giảm 11,3%; hàng hóa khác đạt 26,2 triệu USD, giảm 12%; xơ, sợi dệt các loại đạt 10,2 triệu USD, giảm 7,3%; hàng thủy sản đạt 1,8 triệu USD, giảm 21,3%; sản phẩm từ sắt thép đạt 1,6 triệu USD, giảm 7,9%; sản phẩm gốm, sứ đạt 1,3 triệu USD, giảm 5,7%;...
Tính chung quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 520 triệu USD, tăng 0,6% so với cùng kỳ; trong đó: Kinh tế tư nhân ước đạt 291 triệu USD, giảm 4,6%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 229 triệu USD, tăng 8,1%. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 1,6 lần; hàng thủy sản tăng 43,9%; sản phẩm gốm sứ tăng 22,9%; sản phẩm mây, tre, cói và thảm tăng 13,5%; hàng dệt may tăng 9%. Ngược lại một số sản phẩm giảm như: xơ, sợi dệt các loại giảm 35,6%; sản phẩm từ sắt thép giảm 27,7%; hàng hóa khác giảm 15%; sắt thép giảm 12,8%; sản phẩm gỗ giảm 8,2%;...
Theo thị trường xuất khẩu hàng hóa, Châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh ước đạt 269 triệu USD (chiếm 51,7%), giảm 1,0% so với cùng kỳ; tiếp đến là Châu Mỹ ước đạt 147 triệu USD, chiếm 28,3%; Châu Âu ước đạt 53 triệu USD, chiếm 10,3%.
Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 3/2023 ước đạt 157 triệu USD, tăng 4,4% so với tháng trước và giảm 41% so với cùng kỳ. Theo loại hình kinh tế: Kinh tế tư nhân ước đạt 97 triệu USD, tăng 7,3% so với tháng trước và giảm 55,9% so với cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 60 triệu USD, tương đương so với tháng trước và tăng 29,3% so với cùng kỳ. Một số mặt hàng giảm so với tháng trước như: Máy móc, thiết bị, phụ tùng khác giảm 54,5%; hóa chất giảm 14,9%; xơ, sợi dệt các loại giảm 5,5%; máy vi tính, sản phẩm điện tử giảm 5,2%;… Bên cạnh đó một số mặt hàng tăng: Chất dẻo nguyên liệu tăng 3 lần; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày tăng 14,1%; vải các loại tăng 12,2%; phế liệu sắt thép tăng 10%; hàng thủy sản tăng 9,5%;…
Tính chung quý I/2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 448 triệu USD, giảm 24,7% so với cùng kỳ, do hầu hết các đơn hàng xuất khẩu trực tiếp sản xuất và gia công đều giảm, bên cạnh đó hàng xăng dầu nhập khẩu chững lại do tác động từ giá xăng dầu thế giới. Theo thành phần kinh tế: kinh tế tư nhân đạt 286 triệu USD, giảm 36,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 161 triệu USD, tăng 12,1%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa quý I/2023, Châu Á là thị trường nhập khẩu lớn nhất của tỉnh ước đạt 376 triệu USD, chiếm 83,9%; tiếp đến là Châu Âu ước đạt 25 triệu USD, chiếm 5,6%; Châu Mỹ ước đạt 4,3 triệu USD, chiếm 1,0%.
Ngoài những kết quả tích cực như trên cũng còn một số hạn chế như hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp dệt may, da giầy như thiếu đơn hàng, chưa chủ động được nguồn nguyên vật liệu, phụ liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan (xung đột giữa Nga và Ukraine, thị trường giá cả biến động, đặc biệt là giá nguyên vật liệu, vật tư tăng cao, lạm phát, diễn biến phức tạp...) đã tác động không nhỏ tới sự phát triển của doanh nghiệp còn có nguyên nhân chủ quan là do một số doanh nghiệp còn lúng túng trước biến động tăng giá cả nguyên vật liệu đầu vào, không chủ động được nguồn nguyên liệu cho hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó gây gián đoạn hoạt động sản xuất, kinh doanh.
3. Nhiệm vụ quí II, năm 2023
Trong thời gian tới ngành công thương kỳ vọng sẽ tiếp tục có sự bứt phá mạnh mẽ. Hết năm 2023, toàn ngành phấn đấu đạt mục tiêu giá trị sản xuất công nghiệp dự kiến đạt 113.950 tỷ đồng, tăng 19,2%; tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng dự kiến đạt 65.600 tỷ đồng, tăng 10%; kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 2.669 triệu USD, tăng 10% và kim ngạch nhập khẩu dự kiến đạt 2.295 triệu USD, tăng 9,5% so với năm 2022.
Để đạt được các mục tiêu đó, Sở công thương tỉnh đã đưa ra những nhiệm vụ trọng tâm, cần thiết trong quí II/2023 như: Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh (dự kiến tổ chức Hội nghị tháo gỡ khó khăn trong tháng 4/2023); Hoàn thành việc thành lập cụm công nghiệp Ninh An phục vụ Đề án di chuyển các cơ sở sản xuất kinh doanh, trụ sở các cơ quan đơn vị và một số điểm dân cư ven sông Trà Lý thuộc địa bàn thành phố Thái Bình để phát triển đô thị; Tiếp tục xây dựng Đề án thí điểm bàn giao 01 cụm công nghiệp do cấp huyện quản lý cho doanh nghiệp; Đôn đốc đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư hạ tầng trong công tác xúc tiến đầu tư, thu hút nhà đầu tư thứ cấp vào cụm công nghiệp; Tham mưu xử lý dứt điểm 46 cửa hàng kinh doanh xăng dầu chưa được cấp phép sau khi có Văn bản chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tiếp tục thực hiện việc kết nối cung cầu, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp nông thôn tiêu biểu sau Hội nghị kết nối cung cầu và Hội nghị phát triển thị trường lúa gạo; Triển khai thực hiện các đề án khuyến công, khuyến thương; Tiếp tục phối hợp với đơn vị tư vấn hoàn thiện Quy hoạch tỉnh lĩnh vực Công Thương; Tham mưu giải quyết khó khăn vướng mắc các dự án điện mặt trời mái nhà trên địa bàn tỉnh, việc di chuyển các đường dây điện phục vụ giải phóng mặt bằng, xác định hướng tuyến các đường điện (khu công nghiệp Liên Hà Thái, Nhà máy chế biến gạo của Công ty CP Tập đoàn Thái Bình seed); Đôn đốc triển khai thực hiện các dự án điện trên địa bàn tỉnh...)./.
Nguyễn Kiều Ly
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT